“UM LAM-UM XỈ LÂM-UM
MANI PADME HUM-UM CHIẾT LỆ, CHỦ LỆ, CHUẨN ĐỀ, TA BÀ HA, BỘ LÂM"
“Thiện
nam tử ! Sáu chữ Đại Minh Đà La Ni đó là Bản Tâm vi diệu của Ngài Quán Tự Tại Bồ
Tát. Nếu biết Bản Tâm vi diệu ấy, tức biết giải thoát”. Đức Phật nói: “ Nếu có người
thường thọ trì 06 chữ Đại Minh Đà La Ni thì khi trì tụng có 99 căng già sa số
Như Lai nhóm hội, có vô số Bồ Tát nhiều như vi trần nhóm hội, cũng có chúng
Thiên tử ở 32 cõi Trời cũng đều nhóm hội. Lại có 04 vị Đại Thiên Vương ở 04
phương làm hộ vệ. Có Ta Nga La Long Vương (Sàgara Nàgaràjà), Vô Nhiệt Não Long
Vương (Anavatapta Nàgaràja), Đắc Xoa Ca Long Vương (Taksïaka Nàgaràja), Phạ Tô
Chỉ Long Vương (Vàsuki Nàgaràja). Như vậy, vô số trăm ngàn câu chi na khế đa
Long Vương đều đến hộ vệ người thọ trì ấy. Lại ở khắp trong cõi đất, hết thảy
các Dược Xoa (Yaksïa), Hư Không Thần (Àka’sa Devatà) đến hộ vệ
Như Ý Tâm Đà La Ni
:Nam-mô Phật-đà-da. Nam-mô Ðạt-ma-da.Nam-mô
Tăng-dà-da. Nam-mô Quán-Tự-Tại Bồ-tát ma-ha-tát, Cụ đại-bi tâm giả..Ðát điệt
tha.Án chước yết ra phạt để chấn đa mạc ni, Ma ha bát đẳng mế, Rô rô rô rô, để
sắc tra thước ra a yết rị, Sa dạ, Hồng phấn ta ha. Án, Bát đạp ma chấn đa mạt
ni, Thước ra hồng.Án bát lặc đà,Bát đẳng mế hồng. Chú Như Ý Bảo Luân Vương Đà
La Ni: Theo Như Ý Tâm Đà La Ni: Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại vì muốn cho chúng sanh
tùy ý sở cầu cái gì cũng được như nguyện
OM MANI PADME HUM là mật chú tối thắng của các đức như lai
cũng là của Bồ Tát Quán Thế Âm. Thần chú là có nhiều ý nghĩ hóa giải tam độc ,
bạch trừ tai chướng , tiêu trừ bệnh tật,hóa giải yêu ma, thêm phần công đức....Thần
chú này có nhiều ý nghĩa chỉ có phật bồ tát mới có thể diễn thuyết hết công đức
thù thắng của nó. Khi trì chú lục tự đại minh này sẽ tiêu trừ khố ách phiên
não, an vui tự tại thâm tâm
Đời
Đường, nước Kế Tân,
Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly
Vâng chiếu dịch Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
Tu Viện Quảng Đức
Mùa An Cư Kiết Đông 2014
NGHI THỨC KHAI KINH
NIỆM HƯƠNG
TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN
Tu
rị tu rị, ma ha tu rị, tu tu rị, ta bà ha. (3 lần)
TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ
ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)
ÁN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN
Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, án, độ rô độ
rô, địa vĩ ta bà ha. (3 lần)
PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN Án nga nga nẳng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nguyện mây hương mầu này,
Đến khắp mười phương cõi,
Cúng dường tất cả Phật,
Tôn Pháp, Chư Bồ Tát,
Vô biên chúng Thanh văn,
Cùng tất cả Thánh hiền,
Duyên khởi đài sáng chói,
Trùm đến vô biên cõi,
Khắp xông các chúng sanh,
Đều phát tâm Bồ-đề,
Xa lìa các nghiệp vọng,
Trọn thành đạo Vô thượng.
Đấng Pháp vương Vô thượng,
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp Trời người,
Cha lành chung bốn loại,
Quy y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương và tán thán,
Ức kiếp không cùng tận.
QUÁN TƯỞNG
Phật,
chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông khó thể nghĩ bàn,
Lưới Đế châu ví Đạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,
Trước Bảo tọa thân con ảnh hiện,
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, biến
pháp giới, quá, hiện, vị lai, thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng,
thường trụ Tam Bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta bà Giáo chủ Điều
Ngự Bổn Sư Thích Ca Mô Ni Phật, Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn
Thù Sư Lợi Bồ-tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ-tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ-tát, Linh Sơn
Hội Thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây phương Cực Lạc
thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát, Đại Thế Chí
Bồ-tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-tát. (1
lạy)
TÁN DƯƠNG CHI
Cành
dương, nước tịnh,
Rưới khắp Tam thiên,
Tánh không, tám đức lợi nhân gian,
Pháp giới rộng thênh thang,
Diệt tội tiêu khiên,
Lửa rực hóa hồng liên.
Nam mô Thanh Lương Địa Bồ-tát Ma-ha-tát (3 lần)
CHÚ ĐẠI BI
Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ-tát. (3
lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bát ra
da, Bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn
ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô
kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa
mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt
đạt đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha Bồ-
đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô
kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị
ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất
na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô
lô, ma ra, hô lô hô lô, hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, Bồ-đề
dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma
na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ,
thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất
ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra
a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà
ra dạ, ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a
rị da, bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. Án, tất điện đô, mạn đa ra,
bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)
Nam mô Thập phương thường trụ Tam Bảo
VĂN PHÁT NGUYỆN
Lạy Đấng Tam giới Tôn,
Quy mạng mười phương Phật,
Nay con phát nguyện rộng,
Trọ trì Kinh Trường Thọ
Trên đền bốn ơn nặng,
Dưới cứu khổ ba đường,
Nếu có kẻ thấy nghe,
Đều phát tâm Bồ-đề,
Hết một báo thân này,
Sanh về nước Cực lạc.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
KỆ KHAI KINH
Phật pháp cao siêu rất tuyệt vời,
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu,
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu,
Nam mô Khai Bảo Tạng Bồ-tát Ma-ha-tát (3
lần)
KINH TRƯỜNG THỌ DIỆT TỘI
HỘ CHƯ
ĐỒNG TỬ ĐÀ LA NI Đời Đường, nước Kế Tân,
Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch Việt dịch: Sa Môn Thích Thiện Thông.
Giọng
tụng: Thích Nữ Như Như (Sydney, Úc Châu)
Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật, ở
thành Vương Xá, trong núi Linh-thứu, với sự câu hội, một ngàn hai trăm năm mươi
Tỳ-kheo, các Đại Bồ-tát, mười hai ngàn người, cùng tám bộ chúng, Trời, Rồng,
quỷ thần, hạng nhân phi nhân, nghe Phật nói pháp.
Bấy giờ Đức Thế Tôn, từ trên gương mặt,
phóng những ánh sáng, với trăm màu sắc, xanh, vàng, đỏ, trắng, trong mỗi màu có
vô lượng hóa Phật, hay làm Phật sự, chẳng thể nghĩ bàn. Mỗi mỗi hóa Phật, đều
có vô lượng Bồ-tát hóa hiện, ca ngợi Đức Phật. Ánh sáng nhiệm mầu, khó thể đo
lường, trên đến cõi trời, Phi phi tưởng xứ, dưới hết chiếu đến, địa ngục Vô
gián. Ánh sáng lan khắp, tám muôn địa ngục, nơi nào cũng có. Chúng sanh trong
ngục, gặp ánh sáng Phật, tự nhiên niệm Phật, đều được phương tiện, niệm Phật
tam muội.
Khi ấy trong chúng, có bốn mươi chín
Bồ-tát, vừa mới phát ý, muốn từ nơi Phật, cầu mạng trường thọ, nhưng họ không
thể phát lời thưa hỏi.
Lúc đó, Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi, biết chỗ
nghi ngờ của các vị kia, Ngài liền đứng dậy, vén áo vai mặt, chắp tay hướng
Phật và bạch lên rằng:
Kính bạch Thế Tôn! Con thấy chúng sanh, có
điều nghi ngờ, nay muốn thưa hỏi, xin Đức Như Lai, cho phép con nói.
Đức Thế Tôn dạy: Lành thay! Lành thay! Văn
Thù Sư Lợi, ông nghi điều gì, cứ tha hồ hỏi.
Ngài Văn Thù thưa: Kính bạch Thế Tôn! Tất
cả chúng sanh, nơi biển sanh tử, tạo các nghiệp ác, kiếp này kiếp nọ, luân hồi
sáu đường, dẫu được thân người, nhưng mắc quả báo, tuổi thọ ngắn ngủi, làm sao
cho họ, được mạng lâu dài, diệt các nghiệp ác? cúi mong Thế Tôn, nói về phương
pháp, tuổi thọ lâu dài.
Đức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi: Lòng đại
Từ bi của ông vô lượng, xót nghĩ đến những chúng sanh tội khổ, nay hỏi việc
trên. Nếu Ta nói đủ, thì khắp chúng sanh, khó ai tin nhận.
Văn Thù Sư Lợi bạch Phật lần nữa: Kính bạch
Thế Tôn, Đấng Nhứt thiết trí, Thầy của Trời người, che khắp chúng sanh, Cha
lành tất cả, Vua trong các pháp, một tiếng của Ngài, diễn nói tất cả, cúi mong
Thế Tôn, thương xót nói rộng.
Đức Phật mỉm cười, bảo khắp đại chúng: Các
vị lóng nghe, Như Lai sẽ vì các vị mà nói.
Về đời quá khứ, có thế giới tên, Vô Cấu
Thanh Tịnh, cõi đó có Phật, hiệu là Phổ Quang, Chánh Kiến Như Lai, Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, được vô lượng vô biên, các đại
Bồ-tát, lúc nào cũng thường, cung kính vây quanh. Trong pháp Phật ấy, có cận sự
nữ, tên là Điên Đảo, cô này nghe Phật, xuất hiện nơi đời, muốn cầu xuất gia,
buồn bã kêu khóc, bạch Đức Phật rằng:
Kính bạch Thế Tôn! Con có nghiệp ác, muốn
xin sám hối, cúi mong Thế Tôn, cho con nói rõ: Con về trước kia, thân mang thai
nghén, mới đủ tám tháng, cũng vì phép nhà, cho nên con chẳng ham muốn con cái,
bèn uống thuốc độc, phá thai giết con, chỉ sanh đứa chết, đủ cả hình người. Có
bậc triết giả đến bảo con rằng: “Nếu cố sẩy thai, người này hiện đời, mắc
báo bệnh nặng, mạng sống ngắn ngủi, chết đọa A-tỳ, chịu khổ nào lớn”. Nay
con suy nghĩ, rất sanh buồn sợ. Cúi xin Thế Tôn, đem sức Từ bi, vì con nói
pháp, cho con xuất gia, để khỏi khổ ấy.
Lúc đó, Đức Phật Phổ Quang Chánh Kiến bảo
nàng Điên Đảo rằng: Trên thế gian có năm thứ ác nặng, sám hối khó diệt. Những
gì là năm? Một là giết Cha, Hai là giết Mẹ, Ba là giết Thai, Bốn là làm cho
thân Phật chảy máu, Năm là phá sự hòa hợp của Tăng.
Khi ấy, người nữ có tên Điên Đảo, kêu khóc
nghẹn ngào, nước mắt như mưa, năm vóc gieo xuống, lăn lộn trước Phật, và bạch
lên rằng: Lạy Đức Thế Tôn, từ bi rộng lớn, cứu hộ tất cả, cúi xin Thế Tôn,
thương xót nói pháp.
Đức Phật Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai bảo
một lần nữa: Nghiệp ác của ngươi, rồi sẽ sa đọa, địa ngục A-tỳ, không sao dừng
ngớt. Trong địa ngục nóng, tạm gặp gió lạnh, tội nhân tạm mát, trong địa ngục
lạnh, tạm gặp gió nóng, tội nhân tạm ấm. Địa ngục A-tỳ, không có điều đó, lửa
trên suốt xuống, lửa dưới suốt lên, bốn bề vách sắt, trên đặt lưới sắt, bốn cửa
Đông Tây, có lửa nghiệp mạnh, nếu chỉ một người, thân cũng đầy ngục, thân to
lớn đến tám vạn do tuần, nếu đông nhiều người, cũng đều đầy ngục. Khắp thân tội
nhân, có rắn sắt lớn, khổ độc của nó, hơn cả lửa mạnh, lại có chim sắt, mổ thịt
tội nhân, hoặc có chó đồng, nhai thân tội nhân, ngục tốt đầu trâu, tay cầm binh
khí, phát tiếng hung tợn, như tiếng sấm sét, bảo tội nhân rằng: “Người cố
giết thai, phải chịu khổ này !”…Ta nếu nói sai, chẳng phải là Phật.
Nữ nhân Điên Đảo, nghe Phật nói rồi, té xỉu
xuống đất, lần hồi tỉnh lại, tiếp bạch Phật rằng: Kính bạch Thế Tôn! Chỉ một
mình con, chịu đau khổ này, hay chúng sanh nào, cũng chịu khổ ấy?
Phổ Quang Như Lai bảo với Điên Đảo: Con
ngươi trong thai, hình người đầy đủ, ở giữa hai nơi, ruột non ruột già, giống
như địa ngục, bị hai tảng đá, đè ép thân thể. Nếu mẹ ăn nóng, như địa ngục
nóng, trọn ngày khổ đau. Ở trong vô minh, ngươi còn ác tâm, cố uống thuốc độc!
Nghiệp ác của ngươi, tự đọa A-tỳ. Tội nhân địa ngục, chính ngươi đồng bọn.
Cô gái Điên Đảo, lại một lần nữa, khóc thưa
Đức Phật rằng: Con nghe người trí, có nói lời rằng: “Nếu tạo điều ác, gặp
Phật và Tăng, sám hối liền diệt. Giả như chết rồi, vào các địa ngục, tạo chút
ít phước, trở lại sanh thiên”. Ý ấy thế nào, xin vì con dạy.
Đức Phật Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai bảo
Điên Đảo rằng: Nếu có chúng sanh, tạo các tội nặng, gặp Phật hoặc Tăng, chí
thành sám hối, không tạo lại nữa, tội được tiêu diệt. Giả sử mạng chung, vua
Diêm Ma La, tra hỏi chưa định, mà những người sống, quyến thuộc kẻ mất, thỉnh
Phật mời Tăng, trong vòng bảy ngày, chuyển đọc Kinh điển, Phương đẳng Đại thừa,
đốt hương rải hoa, sẽ có Diêm sứ, kiểm lại thiện ác, cầm phan năm sắc, đến chỗ
Diêm vương, trước sau phan đó, ca vịnh tán thán, phát tiếng vi diệu, hòa nhã
thuận thiện, bảo Diêm vương rằng: “Người này chứa thiện”.
Hoặc nhiều người chết, nội trong bảy ngày,
do lúc còn sống, tin theo tà đạo, nhận thức điên đảo, chẳng tin Phật pháp, Kinh
điển Đại thừa, không lòng hiếu thảo, không tâm từ bi, sẽ có Diêm sứ, cầm lá
phan đen, trước sau phan đó, vô số ác quỷ, báo Diêm vương rằng: “Kẻ này chứa
ác”.
Đang lúc bấy giờ, Diêm La pháp vương, thấy
lá thần phan, năm sắc đưa đến, lòng rất vui vẻ, lên tiếng xướng rằng: “Nguyện
tội thân ta, cũng đồng người lành”. Ngay trong lúc ấy, giữa các địa ngục,
biến thành suối trong, núi đao rừng kiếm, như hoa sen mọc, tất cả tội nhân, đều
hưởng vui sướng. Nếu thấy phan đen, Diêm vương tức giận, tiếng ác rung chuyển,
đem các tội nhân, giao mười tám ngục, hoặc lên cây gươm, hoặc vào núi đao, hoặc
nằm giường sắt, hoặc ôm trụ đồng, trâu sắt cày bừa, xay, nghiền, mài, giã, một
ngày một đêm, muôn lần chết sống, cho đến lần lượt, đọa ngục A-tỳ, chịu đau khổ
lớn, kiếp này kiếp khác, không hề dừng nghỉ.
Khi Đức Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai nói
chưa dứt lời, thì giữa hư không, có tiếng hung tợn, gọi lớn tiếng rằng: “Nữ
nhân Điên Đảo! Người cố giết thai, mắc báo đoản mạng, ta là sứ quỷ, cố đến bắt
ngươi!”.
Người nữ Điên Đảo, kinh ngạc buồn khóc, ôm
chân Đức Phật, kêu cứu lên rằng: Cúi xin Thế Tôn, vì con nói rộng, nhân duyên diệt
tội, trong kho giáo pháp, của các Đức Phật, dầu chết con cũng, sẽ làm xong
nguyện.
Bấy giờ, Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai, dùng
thần lực Phật, bảo quỷ sứ rằng: Sát quỷ Vô thường! Nay ta muốn vì nữ nhân Điên
Đảo, nói Kinh Diệt Tội, thọ mạng lâu dài, hãy đợi chốc lát, tự sẽ chứng biết.
Chánh Kiến Như Lai dạy bảo người nữ: Người
hãy lóng nghe! Ta sẽ vì ngươi, y cứ hàng ngàn Đức Phật quá khứ, nói Kinh
Trường Thọ, là pháp bí yếu, của các Đức Phật, khiến cho bọn ngươi, lìa khỏi
đường ác.
Điên Đảo nên biết! Sát quỷ Vô thường đây,
lúc nào cũng thường, rình tìm bắt người, khó mong thoát khỏi. Dẫu có vô lượng,
trăm ngàn vàng ngọc, lưu ly, xa cừ, xích châu, mã não, mà đem chuộc mạng, cũng
không thể được. Giả sử vua chúa, thái tử, quan lớn, trưởng giả v.v… cậy thế lực
mình, nhưng rồi một khi, quỷ vô thường đến, cắt đứt mạng quý, không một người
nào, có thể thoát khỏi. Điên Đảo nên biết! Chỉ một chữ Phật, mới có thể khỏi,
cái khổ lớn này.
Hỡi này Điên Đảo! Trên đời có hai hạng
người dõng mãnh, rất là hiếm có, như hoa Ưu-đàm, khó thể gặp gỡ. Một là hạng
người không làm điều ác. Hai là có tội liền hay sám hối. Hai hạng như vậy, rất
là hiếm có. Người đã dốc lòng, sám hối với Ta, Ta sẽ vì ngươi, nói Kinh Trường
Thọ, khiến ngươi khỏi khổ, vì quỷ vô thường.
Điên Đảo nên biết! Trong đời sau này, lúc
năm trược loạn, nếu có chúng sanh, tạo năm tội nặng: Giết Cha, hại Mẹ, thuốc
độc trục thai, phá tháp hủy chùa, đập đổ tượng Phật, phá hòa hợp Tăng. Những chúng sanh nào, tạo các tội lỗi, ngũ
nghịch như thế, nếu luôn thọ trì, Kinh Trường Thọ này, biên chép đọc tụng, tự
mình biên chép, vẫn được diệt tội, sanh về Phạm Thiên, huống gì nay người được
thân thấy Ta.
Lành thay Điên Đảo! Ngươi về vô lượng số
kiếp xa xưa, gieo các căn lành, nay Ta nhân lời người khéo thưa hỏi, ân cần sám
hối, tức được chuyển thành, pháp luân Vô thượng, hay độ vô biên, biển khổ sống
chết, có thể chiến đấu, với ma Ba Tuần, có thể xô ngã, tràng phan dựng lập, của
ma Ba Tuần. Ngươi hãy nghe kỹ, Ta sẽ nương theo, chư Phật quá khứ, nói về giáo
pháp, Mười hai nhân duyên.
Vô minh duyên Hành, Hành duyên cho Thức,
Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Lục nhập, Lục nhập duyên Xúc, Xúc duyên cho
Thọ, Thọ duyên cho Ái, Ái duyên cho Thủ, Thủ duyên cho Hữu, Hữu duyên cho Sanh,
Sanh duyên Lão tử, ưu bi khổ não….
Nếu Vô minh diệt, ngay đó Hành diệt, Hành
diệt tức Thức diệt. Thức diệt tức Danh sắc diệt. Danh sắc diệt tức Lục nhập
diệt. Lục nhập diệt tức Xúc diệt, Xúc diệt tức Thọ diệt, Thọ diệt tức Ái diệt,
Ái diệt tức Thủ diệt. Thủ diệt tức Hữu diệt. Hữu diệt tức Sanh diệt. Sanh diệt
tức Lão, tử ưu bi khổ não diệt.
Điên Đảo nên biết! Tất cả chúng sanh, vì
chẳng nhận ra, mười hai nhân duyên, do đó trôi lăn, trong biển sanh tử. Nếu có
người nào, nhận ra diệu lý, mười hai nhân duyên, chính là thấy Pháp, thấy Pháp
cũng chính là thấy Đức Phật, thấy Phật chính là thấy được Phật tánh. Tại sao
vậy?
Bởi vì chư Phật, lấy đó làm tánh. Nay ngươi
được nghe, Ta nói pháp mười hai nhân duyên đây, là ngươi đã được, Phật tánh
thanh tịnh, kham làm pháp khí. Ta sẽ vì ngươi, nói đạo Nhứt thừa, ngươi hãy tư
duy, giữ gìn nhứt niệm. Nhứt niệm là nghĩa của tâm Bồ-đề, và tâm Bồ-đề, gọi là
Đại thừa, chư Phật Bồ-tát, vì chúng sanh mà phân biệt nói ba, ngươi hãy thường
niệm, thường siêng giữ gìn, tâm Bồ-đề ấy, chớ để quên mất.
Giả sử có các rắn độc bốn đại, quỷ dữ năm
ấm, ba độc tham sân si, giặc cướp sáu nhập, tất cả các ma, tìm đến khuấy nhiễu,
chẳng thể biến đổi tâm Bồ-đề này. Nhân vì được tâm Bồ-đề như thế, mà thân như
Kim cang, tâm như hư không, không gì trừ ngại, chẳng thể hư hỏng. Do chẳng hư
hỏng, cho nên liền được, vô thượng Bồ-đề, sẵn đủ bốn đức, Thường, Lạc, Ngã,
Tịnh, bèn hay xa lìa, sát quỷ vô thường, cùng những nỗi khổ, sanh, già, bệnh
chết, hoặc các địa ngục….
Khi Đức Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai ở giữa
đại chúng, nói pháp này thì trong khoảng không gian, sứ quỷ vô thường, nói lên
lời rằng: “Con nghe Đức Phật, nói giáo pháp này, địa ngục thanh tịnh, biến
thành ao sen. Nay con hiện bỏ cảnh giới sứ quỷ”. Quỷ lại nói thêm: “Hỡi
này Điên Đảo! Khi ngươi đắc đạo, xin tế độ tôi”.
Bấy giờ, Đức Phật Phổ Quang Chánh Kiến lại
bảo cô gái có tên Điên Đảo rằng: Ta đã vì ngươi, nói về mười hai nhân duyên
xong rồi, lại vì ngươi nói sáu Ba-la-mật. Sáu Ba-la-mật là: Trí tuệ Ba-la-mật,
Thiền định Ba-la-mật, Tinh tấn Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật, Trì giới
Ba-la-mật, Bố thí Ba-la-mật, Sáu Ba-la-mật này, ngươi nên thọ trì.
Lại vì ngươi nói bài kệ thành Phật, của các
Đức Phật về thời quá khứ, bài kệ đó là:
Các hành đều vô thường,
Vì là pháp sanh diệt,
Sanh diệt nếu diệt rồi,
Tịch diệt là an vui.
Ngay trong lúc ấy, nữ nhân Điên Đảo, nghe
pháp vui mừng, tâm bừng sáng lặng, tỉnh ngộ tỏ rõ. Do thần lực Phật, bèn bay
lên không, cao hàng trăm thước, an tâm lặng rồi.
Bấy giờ, có một vị Bà-la-môn, thuộc giòng
tộc lớn, trong nhà rất giàu, không ai sánh kịp, bỗng mang bệnh nặng. Thầy thuốc
xem bệnh, cần tròng mắt người, hòa với thuốc tốt, trị liệu mới lành. Đại trưởng
giả này, liền sai tôi tớ, đi khắp các đường, lớn tiếng rao rằng: “Người nào
có thể, nhẫn chịu đau đớn, bán đôi tròng mắt, sẽ trả ngàn vàng, kho tàng quý
giá, mặc tình sử dụng, không hề lẫn tiếc...”
Nữ nhân Điên Đảo, nghe lời nói này, lòng
rất mừng rỡ và tự nghĩ rằng: “Nay ta từ nơi Đức Phật, được nghe Kinh Trường
Thọ mà dứt trừ nghiệp ác, tâm đã tỏ rõ, ngộ ra Phật tánh, lại được lìa khỏi, sứ
quỷ vô thường, và khổ địa ngục, ta nên nghiền thân, đáp đền ơn Phật…”.Nghĩ
xong lớn tiếng, xướng lên lời rằng: “ Tuổi ta nay đã được bốn mươi chín, theo Phật nghe
pháp, tên Kinh Trường Thọ, nay muốn nát thân, không tiếc thân mệnh, chép
Kinh Trường Thọ, bốn mươi chín quyển, muốn cho chúng sanh, thọ trì đọc tụng, ta
cần bán mắt, để tả Kinh này, mắt ta vô giá, mặc tình cho người, tùy ý trả giá”.
Lúc ấy, vị trời Đế Thích, với các Thiên tử,
đồng hóa ra bốn mươi chín người đời, đến chỗ Điên Đảo, nói với người rằng: “ Ta
nguyện vì Ngài, biên chép Kinh ấy, Ngài xem xong rồi, tha hồ bán mắt”.
Nữ nhân Điên Đảo, lấy làm may mắn, mừng rỡ
vô hạn, chẻ xương làm viết, xẻ thịt tay chân, lấy máu làm mực, cung cấp người
viết, trong vòng bảy ngày, biên chép Kinh xong. Mọi người chép rồi, thưa Điên
Đảo rằng:
"Trước đây người hứa, bán đôi tròng mắt, công chúng tôi xong, xin giao
đôi ngươi, chúng tôi đem bán cho Bà-la-môn”.
Lúc ấy, nữ nhân Điên Đảo ra lệnh kẻ
Chiên-đà-la moi con ngươi ra, đem giao cho bốn mươi chín người và chia y một
phần. Gã Chiên-đà-la, theo cách muốn khoét, thì bốn mươi chín người, đều xướng
lên rằng:
Hiếm có! Hiếm có! Chẳng thể nghĩ bàn! Vị nữ
Điên Đảo, chẻ xương lấy máu, ghẻ lở nhơ uế, mà vẫn hay nhẫn, biên chép Kinh
này, chúng ta nỡ nào lấy đôi tròng mắt!
Rồi các vị này, do lòng từ bi, bạch Điên
Đảo rằng: Chúng tôi trọn chẳng ham tròng mắt Ngài, để đem bán cho người
Bà-la-môn, mong Ngài đắc đạo, sẽ độ chúng tôi. Nguyện cho chúng tôi, bất cứ nơi
nào, trong kiếp lai sanh, thường được cùng Ngài, đồng chung một chỗ, làm thiện
tri thức, tuyên nói Kinh này, cứu độ tất cả, chúng sanh tội khổ.
Bấy giờ, Long vương Nan-đà v.v… dùng oai
lực lớn, hóa các huyễn thuật, lấy trộm Kinh của nữ nhân Điên Đảo, để trong Long
cung, thọ trì cúng dường.
Nữ nhân Điên Đảo, chỉ trong phút chốc, chợt
chẳng thấy Kinh, rơi lệ nghẹn ngào, bèn bạch Đức Phật: Kính bạch Thế Tôn! Con
xẻ thân ra, chép Kinh Trường Thọ, muốn khiến lan rộng, tất cả chúng sanh, nay
con bỗng nhiên, chẳng biết tại đâu? Lòng con bối rối, buồn rầu khó nhẫn.
Phổ Quang Như Lai bảo với Điên Đảo: Những
Kinh của ngươi, tám bộ Long vương, thỉnh về Long cung, thọ trì cúng dường,
ngươi nên vui mừng, chớ nên buồn bã. Lành thay Điên Đảo! Ngươi sẽ nhờ sức, công
đức này mà, hết tuổi thọ rồi, sanh lên cõi trời, thuộc Vô sắc giới, hưởng mọi
vui sướng, mãi mãi chẳng còn, làm thân nữ nhân.
Khi ấy, Điên Đảo bạch lên Đức Phật: Kính
bạch Thế Tôn! Sở nguyện của con, chẳng muốn sanh về, cõi trời Vô sắc, chỉ
nguyện đời đời kiếp kiếp, luôn luôn được gặp Thế Tôn, tâm Phật chẳng thoái, bất
cứ chỗ nào, cũng vì tất cả, chúng sanh tội khổ, mà tuyên dương pháp này.
Phật Phổ Quang bảo: Lời ngươi gian dối.
Điên Đảo lại thưa: Nếu con nói dối, thì xin
như trước, bị quỷ Vô thường, đến bắt bức ngặt. Nếu con thật tâm, xin những lở
lói, trong thân của con, đối trước Đức Phật, đều trừ lành hết.
Ngay đó Điên Đảo, do sức thệ nguyện, lành
lại như cũ.
Phổ Quang Như Lai bảo Điên Đảo rằng: Ngươi
hãy một lòng niệm Phật, thì sẽ từ một Phật quốc, đến Phật quốc khác, ngươi liền
có thể, nhìn thấy vô lượng, vô biên thế giới, của các Đức Phật, chẳng thể nghĩ
bàn, mà chẳng cần đến, văn tự lời lẽ.
Lúc đó Điên Đảo, chỉ trong khoảnh khắc,
liền chứng được tâm Vô thượng Bồ-đề, Vô sanh Pháp nhẫn.
Đức Thế Tôn bảo Ngài đại Bồ-tát Văn Thù Sư
Lợi: Văn Thù nên biết, Phổ Quang Như Lai chính là thân Ta, nữ nhân Điên Đảo là
thân ông vậy, bốn mươi chín người, là những Bồ-tát, vừa mới phát ý. Ta về quá
khứ, vô lượng vô biên, kiếp xưa trở lại, vì sự hộ thân, mà Ta luôn luôn, cùng
với các ông, tuyên nói Kinh này, khiến cho tất cả chúng sanh, người nào có những
nghiệp ác, nghe lọt vào tai, dù nửa bài kệ, của Kinh Trường Thọ trên đây, đều
được diệt tội, nay lại nói thêm.
Bấy giờ, vua Ba-Tư-Nặc, ngay trong đêm ấy,
tại giữa vương cung, nghe một người nữ, lớn tiếng khóc ròng, tiếng khóc não nề,
người nghe khó nhẫn, buồn không kể xiết. Vua tự nghĩ rằng: “ Thâm cung của
ta, chưa bao giờ có sự việc như vầy, vì sao có tiếng bi ai thế kia?”. Lúc
vừa sáng sớm, sai các quan chức, đi nhiều ngả đường, tìm người nữ ấy.
Sứ vâng lệnh vua, tìm được đưa về, người nữ
kinh ngạc, ngất xỉu trước vua, vua lấy nước lạnh, rưới lên trên mặt, hồi lâu
tỉnh dậy, Ngài mới hỏi rằng:
Đêm qua kêu khóc, có phải ngươi chăng?
Người phụ nữ đáp: Vì tôi nhức tai.
Nhà vua hỏi tiếp: Cớ gì oán khóc, ai xâm
phạm ngươi?
Nữ nhân đáp rằng: Tôi tự ân hận, không ai
xâm phạm. Cúi xin nhà vua cho phép tôi nói.
Tôi mười bốn tuổi, đã làm vợ lớn, của bên
nhà chồng, qua ba mươi năm, sanh ba mươi con, dung mạo đẹp lạ, tóc màu xanh
biếc, tay đỏ như son, răng trắng như ngọc, thân thể đầy đặn như hoa mùa xuân.
Tôi luyến mến chúng dường như tủy não, như gan ruột mình, hơn cả tánh mạng.
Chúng vừa lớn lên, chẳng hơn một tuổi, vào lúc Thu, Hè, bỏ tôi mà chết. Đứa con
sau cùng, hơn cả mạng tôi, hiện nay nó lại đang bị nguy khốn, mạng sắp sửa mất,
cho nên đêm qua, tôi mãi kêu khóc, nhức cả lỗ tai.
Vua Ba-Tư-Nặc, nghe được lời ấy, ông rất
buồn bã, thầm tự xét rằng: “ Thứ dân trăm họ, nương nhờ nơi ta, nếu chẳng
cứu giúp, sao gọi là vui ?”.Liền nhóm các quan, cùng nhau bàn luận. Nhà vua
có sáu vị quan đại thần. Một là Kiến Sắc. Hai là Văn Thinh. Ba là Hương Túc.
Bốn là Biện Tài. Năm là Tùy Duyên. Sáu là Dị Nhiễm. Họ tâu với vua: Trẻ nít mới sanh, nên bày sắm lễ, Thần Đàn diên
mạng, bảy vị tinh quân, hai mươi tám vị sao, mới khỏi nạn khổ, cúi xin nhà vua,
ra lệnh khắp nước…
Khi ấy, có một vị quan sáng suốt, đã từng ở
chỗ, vô lượng Đức Phật, vun trồng căn lành, tên là Định Huệ, ra thưa với vua:
Đức vua nên biết, lời sáu vị quan, chẳng thể cứu khổ. Nay có Đại sư, họ là
Cù-Đàm, hiệu Tất-Đạt-Đa, không thầy tự ngộ, đã được thành Phật, hiện ở Linh
Thứu, nói Kinh Trường Thọ, cúi xin đức vua, qua đó nghe nhận. Nếu nghe Kinh này, nửa kệ qua tai, không một tội nào, mà chẳng tiêu diệt.
Tất cả trẻ con, nghe lọt vào tai, dầu chưa ngộ hiểu, do công đức Kinh, tự nhiên
sống lâu.
Vua Ba-Tư-Nặc nói: Trước đây ta từng nghe
lục sư nói: “Sa-môn Cù-Đàm, học hỏi cạn cợt, mặt còn trẻ trung, tuổi tác còn
nhỏ. Trong những kinh của lục sư nói rằng : “ Người hay làm trò, huyễn hóa yêu
mị, là Cù-Đàm vậy, nếu ai tôn sùng, phần nhiều bỏ mất, con đường chơn chánh”.
Vị quan Định Huệ, dùng kệ thưa vua:
Thích Ca Mâu Ni, Thầy trời người
Từng vô lượng kiếp tu khổ hạnh
Nay được thành Phật, chuyển pháp luân
Lại nương chư Phật quá khứ nói
Chẳng trái nguyện của khắp chúng sanh
Sức từ bi lớn cứu loài mê
Gặp Phật khó như rùa gặp bọng
Cũng như gặp hoa mẫu Ưu-đàm
Cúi xin nhà vua qua nghe pháp
Chớ tin lời lục sư ngoại đạo.
Đại thần Định-Huệ, nói kệ ấy rồi, do sức
thần thông, vọt khỏi mặt đất, bay lên hư không, cao hàng trăm thước, liền ở
trước Vua, làm các chú thuật, trong khoảng một niệm, khiến núi Tu Di và nước
biển lớn, vào hết trong tâm, an nhiên vô ngại.
Vua Ba-Tư-Nặc, thấy việc này rồi, khen rất
hiếm có: “Đây mới đúng là, chơn thiện tri thức”, liền hỏi Định Huệ: Thầy
ông là ai?
Ngài Định Huệ đáp: Thầy tôi là Phật, Thích
Ca Mâu Ni, hiện nay ở tại, đại thành Vương Xá, trong núi Linh-Thứu, đang nói về
Kinh, Trường Thọ Diệt Tội.
Vua nghe lời này, lòng rất mừng rỡ, liền
đem việc nước, tạm giao Định Huệ, vua cùng quyến thuộc, các quan, trưởng giả,
xe báu bốn ngựa, trước sau vây quanh, và người phụ nữ, với con của bà, cầm
những tràng hoa, trăm thứ cúng dường, đem hết câu chuyện, của người phụ nữ,
bạch lên Đức Phật.
Đức Thế Tôn bảo vua Ba-Tư-Nặc: Người phụ nữ
này, về đời quá khứ, thân làm mẹ ghẻ, tâm sanh ganh tỵ, hòa hợp thuốc độc, giết
con vợ trước đến ba mươi đứa, những đứa bị giết đều phát thề rằng: “Nguyện
ta đời đời, kiếp kiếp sau này, thường làm con bà, bèn chia ly ngay, khiến bà
khổ sở, một cách đau đớn”. Bây giờ người nữ, đến đây được nghe, Như Lai nói
Kinh Trường Thọ Mạng lâu dài, bài kệ vào tai, oan gia trái chủ, từ đây dứt hẳn.
Bấy giờ, Đức Phật bảo khắp đại chúng: Khi
một người nữ nào đó thọ thai, thì ma Ba Tuần, thả bốn rắn độc, thuộc về bốn
đại, giặc ác sáu trần, vào thân người ấy. Một đại chẳng điều, mạng căn liền
diệt. Như Lai có Đà-la-ni thần chú, có thể tăng thêm, mạng sống
tuổi thọ, cho các trẻ con, nếu ai lo khổ, nghe chú của ta, qua tai một lần, thì
không bệnh gì, mà chẳng trừ lành, hay khiến quỷ dữ, bỏ chạy tứ tán.
Đức Thế Tôn liền nói thần chú rằng:
Ba đầu di, ba đầu di đề tỳ hề ni hề ni, hề di da lê, gia la gia lệ, hầu la
hầu la, do lệ do la, do lệ ba la, ba lệ văn, chế sân diệt, tần diệt bát thệ mạt
diệt trì na ca lê, ta bà ha.
Đức Phật nói tiếp: Văn cú của chú Đà-la-ni này,
nếu kẻ thiện nam, người thiện nữ nào, thọ trì đọc tụng, vì tất cả những trẻ thơ
bệnh hoạn, lúc còn trong thai, sau khi ra thai, mà đem diễn nói, bảy ngày bảy
đêm, đốt hương, rải hoa, biên chép cúng dường, hết lòng nghe nhận, thì những
bệnh nặng, nghiệp chướng thân trước, đều được tiêu diệt.
Bấy giờ, có Ngài Bồ-tát y vương, vua trong
ngành thuốc, tên là Kỳ-Bà, đối trước Đức Phật, bạch với Ngài rằng: Kính bạch
Thế Tôn! Con là một bậc, thầy thuốc đại tài, chữa trị các bệnh, những đứa trẻ
thơ, có chín loại bệnh, làm chúng đoản mạng. Thế nào là chín?
Một là những kẻ, làm Cha làm Mẹ, chung chạ
trái lúc.
Hai là trong lúc, mới sanh đẻ con, để máu
dơ đất, thần đất bỏ đi, ác quỷ tiện dịp.
Ba là mới sanh, chẳng bỏ trùng độc, bé nhỏ
trong rún.
Bốn là chẳng lấy bông mịn chùi sạch máu dơ
trong thai.
Năm là giết hại sanh mạng, để làm yến tiệc
ăn mừng.
Sáu là Mẹ của đứa bé, ăn nhiều trái cây tạp
chất lạnh.
Bảy là hài nhi có bệnh, cho ăn cá thịt tạp
nhạp.
Tám là mới sanh, Mẹ con chưa an, để cho
những người chẳng lành, nhìn thấy chỗ nơi sanh đẻ. Chưa phân an nguy, có thể
làm cho, người Mẹ bị chết.
Phân an nguy rồi, có thể làm cho, đứa con
bị chết. Thế nào gọi là, những người chẳng lành? Nếu như có người, mắt vừa nhìn
thấy, thây chết nào đó, hoặc là thấy những tai biến quái dị, mắt họ bất tịnh,
cho nên gọi là, hạng người chẳng lành. Gặp trường hợp này, nếu dùng vị thuốc Ngưu hoàng, Châu sa, nghiền thành ra bột, trộn với mật
ong, đặt ngay tại tim đứa bé, có thể khỏi điềm chẳng lành.
Chín là ban đêm ẵm trẻ tới lui, bị quỷ dữ
đánh.
Những
trẻ sơ sinh, nếu luôn cẩn thận, chín việc như trên, thì chúng trọn chẳng đến
đổi chết mất.
Giữa lúc bấy giờ, Thiên ma Ba Tuần, có Tha
tâm thông, ở trong cung ma, biết Phật nói Kinh Trường Thọ Diệt Tội và Đà-la-ni,
cứu độ trẻ thơ, thì lòng tức giận, phát tiếng dữ dội, lo buồn chẳng vui. Ma
vương có ba con gái tuyệt đẹp, ra thưa cha rằng: Chẳng hay vua cha, cớ gì buồn
rầu ?
Ma vương liền đáp: Sa-môn Cù-Đàm, ở thành
Vương Xá, trong núi Linh-thứu, đang vì vô lượng, vô biên chúng sanh, nói Kinh
Trường Thọ, lan rộng cho khắp tất cả chúng sanh, được vui sống lâu, xâm cảnh
giới ta, ta khởi ác tâm, nay muốn đem các quyến thuộc binh ma, đến nơi dẹp trừ.
Giả sử chẳng thể ngăn cản Cù-Đàm, thì oai lực ta, có thể cản ngăn, bịt tai tất
cả, chư Thiên đại chúng, chẳng để cho họ nghe Phật nói Kinh Trường Thọ Diệt
Tội.
Khi ấy, ba người con gái, con của Ba Tuần,
dùng kệ can cha:
Ba con của Thiên ma Ba Tuần,
Cúi đầu trước mặt, thưa với Cha,
Sa-môn Cù-đàm, Thầy trời người,
Chẳng phải sức ma hay ngăn cản,
Ngày trước, dưới gốc cây Bồ-đề,
Khi Ngài mới ngồi tòa kiết tường,
Ba đứa chúng con rất xinh đẹp,
Đệ nhứt trong các hàng thiên nữ,
Trăm cách cử chỉ gợi dục tình,
Bồ-tát đều không ý đắm nhiễm,
Xem ba chúng con như mụ già,
Ngày thành bực Thầy Vô thượng giác,
Vua cha giương cung toan hù dọa,
Gậy gộc, binh khí bủa hư không,
Bồ-tát xem như trò trẻ nít,
Không một chút tâm sợ thoái lui,
Nay thành đạo làm vua pháp,
Cúi xin vua cha dứt ác tâm.
Lúc ấy, Thiên ma Ba Tuần, nghe con nói kệ,
liền đem quyến thuộc, lén bàn nhau rằng: “Ta với các ngươi đồng đến chỗ
Phật, dùng phương tiện khéo, giả vờ thua cuộc, chịu quy hàng Phật, để Phật tin
dùng. Nếu được tin rồi sẽ làm mọi cách ma sự, chướng ngại Kinh này”.
Ngay đó Thiên ma, cùng với quyến thuộc,
đồng đến chỗ Phật, quanh Phật bảy vòng, rồi bạch lên rằng:
Kính bạch Thế Tôn! Thế Tôn nói pháp, không
mỏi mệt chăng? Nay con lãnh đạo, các quyến thuộc ma, đến đây nghe Kinh Trường
Thọ Diệt Tội, làm đệ tử Phật, cúi mong Thế Tôn, chớ trái nguyện con.
Bấy giờ, Đức Phật quở trách Ma vương: Ngươi
ở cung ma, tâm sanh giận tức, dầu được đến đây, cũng chỉ giả vờ, rút lui quy
hàng. Trong giáo pháp Ta, chẳng chấp nhận sự lừa dối của ngươi.
Thiên ma Ba Tuần, lấy làm xấu hổ, gương mặt
thất sắc, rồi bạch Phật rằng: Kính bạch Thế Tôn! Con tính kế ngu, làm điều dối
trá, xin Đức Phật Thế Tôn, với lòng đại bi, tha thứ tội lỗi. Nay con được nghe,
Kinh chú Trường Thọ, Bảo Vệ Trẻ Thơ, con xin phát nguyện:
Nếu đời sau này, người nào thọ trì, Kinh Trường Thọ đây, biên chép đọc
tụng, bất cứ chỗ nào, con cũng ủng hộ, không để ác quỷ, rình tìm tiện lợi. Dầu
ở địa ngục, nếu tội nhân nào, trong khoảng giây lát, nhớ nghĩ Kinh này, con sẽ
sử dụng, thần lực vĩ đại, lấy nước biển lớn, tưới xuống tội nhân, khiến địa ngục
lớn, biến thành ao sen.
Bấy giờ, lại có La-sát, ăn thịt con nít
v.v…làm bậc thủ lãnh, cùng các quyến thuộc, đồng loại với mình, từ trên không
xuống, đi quanh bên hữu Đức Phật nhiều vòng, rồi bạch lên rằng :
Kính bạch Thế Tôn! Con từ vô lượng kiếp trở
lại đây, chịu thân La-sát, quyến thuộc của con, nhiều như hằng sa, người nào
cũng bị, đói khát ép ngặt, chỉ ăn thai non, trong bốn đại châu, và ăn máu thịt,
con nít mới sanh. Quyến thuộc chúng con, rình chờ chúng sanh, vợ chồng giao
hợp, rồi ăn tinh họ, khiến không thọ thai. Hoặc trong bào thai, con cũng theo
vào, làm cho sẩy thai, rồi ăn tinh huyết. Mới sanh bảy ngày, chúng con chuyên
rình, tìm dịp tiện lợi, dứt mạng căn chúng, cả đến trẻ con, mười tuổi cũng vậy.
Quyến thuộc chúng con, biến làm những thứ, vi trùng độc hại, vào trong thai
nhi, ăn tinh huyết trong tạng phủ đứa bé, khiến cho hài nhi ọc sữa, tiêu chảy
hoặc bị bụng lớn hoặc bị nóng lạnh, tròng mắt có mủ, cho đến lần lần, dứt mạng
của chúng.
Nay đây chúng con, nghe Đức Thế Tôn, nói
Kinh Trường Thọ, diệt các tội chướng, bảo vệ trẻ thơ. Vâng theo những lời, Đức
Thế Tôn dạy, thì quyến thuộc con, bị đói bức ngặt, chẳng dám ăn nuốt.
Phật bảo La-sát: Các ngươi nên thọ, cấm
giới của Ta, sẽ khiến các ngươi, bỏ thân la-sát, sanh về cõi trời, hưởng sự vui
sướng.
Đức Thế Tôn bảo toàn thể đại chúng: Nếu có
trẻ nít, bị mắc bệnh khổ, bảo mẹ đứa bé, chia sữa nhiều giọt, cho giữa khoảng
trống, thí các La-sát và nên thanh tịnh, trì Kinh Trường Thọ Diệt Tội Đà La Ni, biên chép cúng dường, thì
bệnh trừ lành.
Khi ấy, số đông các quỷ La-sát, rất là mừng
rỡ, bạch Đức Phật rằng: Ví được sanh thiên, quyến thuộc chúng con, trọn chẳng
xâm tổn, sữa các trẻ thơ. Thà ăn hoàn sắt, trọn chẳng thể ăn máu các hài nhi.
Sau Phật diệt độ, nơi nào có thể, đọc tụng thọ trì, Kinh Trường Thọ này,
nếu có kẻ ác, quấy rối Pháp sư, hoặc có ác quỷ, phá các trẻ thơ, chúng con sẽ
cầm, những chày kim cang, để bảo vệ trẻ, chẳng cho các quỷ, được dịp tiện lợi.
Bấy giờ, tất cả vua lớn các trời, và quyến
thuộc mình, tất cả chúa rồng, các vua Dạ-xoa, vua A-tu-la, vua Ca-lầu-la, vua
Khẩn-na-la, vua Ma-hầu-la-già, vua Bế-lệ-da, vua A-tỳ-xá-giá, vua Phú-đơn-na,
cho đến vua Ca-tra Phú-đơn-na…Tất cả các Vua, mỗi vị cùng với, toàn thể quyến
thuộc, lễ lạy Đức Phật, đồng lòng chắp tay, nói lên như vầy:
Kính bạch Thế Tôn! Chúng con từ nay, bất cứ chỗ nào, có Thầy
Tỳ-kheo, hay Tỳ-kheo ni, các cận sự nam, hay cận sự nữ, hễ ai thọ trì, Kinh
Trường Thọ này, hoặc chỉ biên chép, quyến thuộc chúng con, thường sẽ bảo vệ.Các vua chúng con, xua đuổi ác quỷ, có quỷ dữ nào, khuấy
rối chúng sanh, khiến mắc bệnh khổ, nếu hay thanh tịnh, viết trì Kinh này, các
vua chúng con, cấm chỉ các quỷ, chẳng cho gây hại, bị khổ chết ngang.
Khi đó, có vị địa thần Kiên Lao, từ tòa
đứng dậy, bạch Đức Phật rằng:
Kính bạch Thế Tôn! Nếu đệ tử Phật, thọ trì
bổn Kinh Trường Thọ Diệt Tội, hộ các trẻ con, địa thần chúng con, thường cho
chất đất, thấm nhuần nơi ấy, khiến trong thân họ, tăng thêm thọ mạng. Chúng con thường đem, các thứ vàng bạc, các
thứ của báu, những loại thóc gạo, cung cấp đầy đủ, cho người có lòng tin, không
thể thiếu thốn, thân được an ổn, không hề rầu lo, tâm thường vui vẻ, được ruộng
phước tốt, không để ác quỷ, dứt mạng căn họ. Nếu các hài nhi, mới sanh bảy
ngày, địa thần chúng con, sẽ ủng hộ chúng, không để mất mạng.
Bấy giờ trong chúng, lực sĩ Kim Cang, bạch
lên Đức Phật:
Kính bạch Thế Tôn! Đức Như Lai nói về Kinh
Trường Thọ Diệt Tội Hộ Các Đồng Tử Đà La Ni đây rồi, các đại thí chủ, và quyến
thuộc mình, ai cũng phát tâm, thọ trì đọc tụng, biên
chép Kinh này, cung cấp vật dụng, không để thiếu thốn. Con có được nghe, một
đấng Thế Tôn, oai đức cao cả, nói đại thần chú, có oai lực lớn, chương cú kiết tường, nếu chúng sanh nào, nghe lọt vào tai, trăm kiếp ngàn đời,
trọn chẳng đoản mạng, tuổi thọ không lường, chẳng các bệnh khổ, dẫu có bốn ma,
cũng chẳng nghịch loạn, thọ mạng thêm lớn, sống lâu đến một trăm hai mươi tuổi,
chẳng chết nửa chừng, chẳng bị thoái đọa. Tất cả Phật tử, khổ vì bệnh nặng,
nghe đến chú này, liền khỏi các quỷ, đến đoạt mạng sống...
Lực sĩ Kim Cang liền nói thần chú:
Đa địa dạ tha. Chiên đạt lị. chiên đạt ra tỳ để. Chiên đạt ra ma hồng.
Chiên đạt ra bạt đế. Chiên đạt ra phủ lê. Chiên đạt ra xà di. Chiên đạt ra để
khế. Chiên đạt phệ mễ. Chiên đột lâu. Chiên đạt ra bà ra yết. Chiên đạt ra vật
đạt khế. Chiên đạt ra bà địa di. Chiên đạt ra bà mễ. Chiên đạt ra khư chỉ.
Chiên đạt ra lô ký. Ta bà ha.
Đức Thế Tôn dạy:
Lành thay! Lành thay! Lực sĩ Kim Cang, nay
ông có thể, nói về thần chú kiết tường, hộ các trẻ con, ông sẽ trở thành, vị
đại đạo sư, của khắp chúng sanh. Văn Thù nên biết, thần chú vừa rồi, được các
Đức Phật quá khứ nói ra, dựng lập bảo vệ, khéo có thể tăng thọ mạng trời người,
hay trừ tất cả, tội nhơ ác kiến, hay hộ tất cả, những người trì Kinh, kéo dài
tuổi thọ.
Bấy giờ, Đức Phật bảo đại Bồ-tát Văn Thù Sư
Lợi, đấng Pháp vương tử rằng:
Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, nếu có
Tỳ-kheo, phá hỏng giới cấm, gần Tỳ-kheo ni, hay những gái trinh, hoặc Sa-di-ni,
uống rượu ăn thịt, gian dâm lẫy lừng, bị hàng bạch y, chê bai khinh rẻ, hủy
diệt pháp Phật, kinh doanh những việc, bất tịnh của đời, không lòng hổ thẹn,
giống như khúc gỗ. Nên biết hạng này, là kẻ ngũ nghịch, chẳng phải đệ tử của
Ta, mà là quyến thuộc của ma, là bọn lục sư. Hạng Tỳ-kheo ấy, ngay trong hiện
đời, mắc báo đoản mạng, hạng Tỳ-kheo-ni, lại cũng như vậy. Nếu luôn sám hối, chẳng tái phạm lại, thọ trì Kinh này, liền được sống
lâu.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời
trược ác, nếu có Bồ-tát, phỉ báng người khác, tự khen mình giỏi, chẳng trao
truyền Kinh Phương Đẳng cho người, hạng Bồ-tát này, là bạn của ma, chẳng phải
là hạng Bồ-tát chân thật. Nếu luôn hết lòng, thọ trì Kinh này, biên chép đọc tụng, tức được Pháp thân
chơn thường của Phật.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời
trược ác, nếu có vua chúa, giết Cha hại Mẹ, tru lục sáu thân, không theo phép
vua, dấy binh khắp nơi, xâm chiếm nước khác, tôi trung can gián, bị giết oan
uổng, dâm dục lẫy lừng, trái phép tiên vương, phá tháp đập chùa, thiêu đốt kinh
tượng, mưa nắng chẳng đều…Do Vua vô đạo, cõi nước đói kém, ôn dịch chết chóc,
diễn ra khắp nơi. Hạng Vua chúa này, hiện đời đoản mạng, chết vào địa ngục, đọa
đại A-tỳ. Nếu như có thể, biên chép Kinh này, lưu thông cúng dường, chí thành
sám hối, theo phép Vua trước, liền được sống lâu.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời
trược ác, nếu có quan lớn, hay các quan chức, thân hưởng lộc Vua, không lòng hổ
thẹn, siểm nịnh bất trung, chuyên làm lừa dối. Do hạng “tặc thần”, nên nước
chẳng yên. Dẫu đến chỗ nào, cũng chẳng thi hành, pháp luật của nước, xâm lấn
trăm họ, buông ý tham tàn, giết người vô tội, chiếm tài sản người, khinh lờn
Kinh điển, ngăn chướng Đại thừa…Những hạng như trên, hiện đời đoản mạng, đọa
ngục A-tỳ, không hẹn kỳ ra. Nếu như có thể, sám hối tội lỗi, thọ trì Kinh này,
biên chép đọc tụng, liền được sống lâu, hưởng mãi lộc trời.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời
trược ác, kẻ cư sĩ nam, cư sĩ nữ nào, tin theo tà giáo, thấy biết điên đảo,
chẳng tin Chánh pháp, Kinh điển đại thừa, chúng sanh như vậy, dù có vô lượng,
trăm ngàn vàng bạc, nhưng lòng tham tiếc, chỉ cầu tài lợi, chẳng hay cấp thí,
cứu ngặt bất cứ kẻ nghèo khổ nào, chẳng hay biên chép, mười hai phần giáo, thọ
trì đọc tụng, cầu khỏi vô thường và khổ đường ác. Hạng người như thế, nhà cửa
hư hao, chim quái xuất hiện, rắn vào nhà nằm, chó lên mái nhà, trăm tiếng chuột
kêu, các loài dã thú, tranh nhau đến ngõ, nhiều quỷ ly mị, vọng lượng v.v…Đó
gọi là quái. Do gặp quái nên, tâm bị buồn rầu, do nhân buồn rầu, chuốc lấy đoản
mạng. Nếu hay thọ trì, biên chép Kinh này, lưu thông đọc tụng, ngay đó có thể,
phá dẹp những thứ, quái gở như trên, được mạng sống lâu.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời
trược ác, tất cả những kẻ, trai gái lớn lên, kẻ làm Cha Mẹ, vì sự thương xót,
mà bị tâm bệnh. Tại vì sao thế?
Hoặc có thanh niên, bị sung quân dịch, luật
Vua như thế, không sao thoát khỏi, Cha Mẹ nhớ nhung, đó là tâm bệnh. Hoặc gái
trưởng thành, gả về nhà người, nhưng bị khinh rẻ, trái đạo phu thê, Cha Mẹ nhớ
thương, đó là tâm bệnh. Vì tâm bệnh nên, sầu lo khổ sở, buồn rầu nhuốm bệnh,
hiện đời mạng ngắn. Nếu
hay biên chép, thọ trì Kinh này, được mạng sống lâu. Do oai lực Kinh, hôn nhân
hòa thuận, tâm bệnh tiêu trừ.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời
trược ác, hầu hết chúng sanh, không tâm từ bi, sát sanh hại mạng, ăn mười thứ
thịt, thân của mọi loài. Văn Thù nên biết, đó không khác gì, giết Cha giết Mẹ,
ăn thịt bà con hoặc vì giết mạng, mà lại phá thai, làm việc ấy nên hiện đời
đoản mạng. Giả sử những lúc, vợ chồng chăn gối, bị La-sát dữ, ăn nuốt bào thai,
khiến không con cái. Nếu mau biên chép, thọ trì Kinh này, liền khỏi khổ ấy.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời
trược ác, hầu hết chúng sanh, chẳng biết kiếp trước, tạm được làm người, cho là
sung sướng, bèn phỉ báng nhau, hoặc cậy quyền hào, đủ thứ ác tâm, xem nhẹ mạng
người, chẳng tin Kinh điển, ngạo mạn Đại thừa. Người như thế đó, hiện đời đoản mạng.
Nếu hay dốc lòng, tha thiết sám hối, điều phục tâm mình, biên chép Kinh này,
thọ trì đọc tụng, do sức thiện căn, được mạng sống lâu. Giả sử có bệnh, cũng
chẳng chết ngang.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời
trược ác, có nhiều chúng sanh, hoặc vâng lệnh Vua, hoặc Cha Mẹ dạy, mà ở nước
khác, hoặc nơi đường hiểm, để lo buôn bán, tìm kiếm của tiền, vì tài lợi mà,
ngã mạn cống cao, đánh cờ đánh bạc, gần gũi điếm đàng, giao thiệp bạn ác, chẳng
tuân lệnh Vua, lời Cha Mẹ dạy, uống rượu ham dâm, táng thân mất mạng. Dẫu được
tiền của, nhưng bị rượu mê, chẳng biết đường sá, thông nghẽn thế nào, sau phải
bị lũ giặc ác cướp của, do đó hại mạng. Nếu hay biên chép, thọ trì Kinh này,
phát thệ nguyện rộng, thì đến nơi nào, giặc ác cũng lui, sanh tâm vui mừng, những thú độc dữ, chẳng thể
nhiễu hại, thân tâm an ổn, được nhiều hàng quý, do lực của Kinh, được mạng sống
lâu.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời
trược ác, hầu hết chúng sanh, vì nghiệp ác nên, chết vào địa ngục, từ địa ngục
ra, chịu thân súc sanh, dẫu được làm người, sáu căn chẳng đủ, mù điếc, câm,
ngọng, lùn xấu lưng gù, chịu thân người nữ, chẳng biết chữ Kinh. Nếu là thân
nam, nhưng vì nghiệp ác, cho nên ngu si, căn tánh chậm lụt, chẳng thể chuyên
đọc, Kinh Trường Thọ này, lòng sanh buồn rầu. Bởi buồn rầu nên gọi là tâm bệnh,
do tâm bệnh nên, hiện đời mạng ngắn. Nếu có thể nhờ, bậc thiện tri thức, biên chép Kinh này,
tự đem Kinh về, từ trước đến sau, một lòng tôn thờ, nhờ chí thành nên công đức
vô lượng, nghiệp ác như trước, chẳng còn chịu lại, người này hiện đời, được
mạng sống lâu.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời
trược ác, nếu có chúng sanh, sau khi chết mất, từ một ngày đến bốn mươi chín
ngày, nếu vì người mất, mà gây dựng phước, công đức bảy phần, thì người mất chỉ
hưởng được một phần. Nếu có thể khi người kia còn sống, trong
bảy tuần nhựt, đình chỉ việc nhà, biên chép Kinh này, hoa hương cúng dường, thỉnh Phật hoặc Tăng, sắm sanh trai
phạn, được những công đức, như cát sông Hằng, người ấy hiện đời, được dài thọ
mạng, lìa hẳn nỗi khổ, trong ba đường ác. Nếu đã chết rồi, thì nhờ nơi phước, của cải
chính thân, người ấy gầy dựng, mà được bảy phần.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời
trược ác, rất nhiều chúng sanh, bất hiếu ngũ nghịch, không lòng nhân từ, đối
với Cha Mẹ, không tình âu yếm, chỉ thờ bà con. Bấy giờ trên không, bốn
vị Thiên vương, quanh khắp bốn châu, nhiều thứ âm nhạc, đem theo quyến thuộc,
vào ba tháng chay, đến cõi Diêm-phù, nếu có chúng sanh, bị mang các bệnh, Thiên
vương đi đường, vì trừ ác quỷ, khiến bệnh được lành. Song những con người, bất
hiếu ngỗ nghịch, ganh tỵ tạo ác, Quỷ vương hành bệnh, liền lấy hơi độc,
hà hơi cho bệnh, khiến bị các thứ, ôn dịch trầm trọng, hoặc nóng hoặc lạnh, sốt
rét hằng ngày, bị độc tà ma, hoặc bị phong cùi. Nếu như có thể, một ngày trong
năm, đốt hương rải hoa, thanh tịnh thân tâm, biên chép Kinh này, cho đến bảy
ngày, thỉnh Phật, mời Tăng, trai tịnh đọc tụng, nhờ căn lành này, trọn không
bệnh dịch, không bị tật dịch, nên được trường thọ.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời
trược ác, chúng sanh phước mỏng, bảy mặt trời hiện, giả sử không có, bảy mặt
trời hiện ra, thì cũng có những vua chúa vô đạo, khiến trời nắng hạn, bao nhiêu
cỏ thuốc, bụi rậm rừng già, trăm giống lúa mạ, mía nho hoa quả, từ đất có ra,
đều bị khô chết. Nếu quốc vương nào hay các chúng sanh, có thể thọ trì, đọc
tụng Kinh này, thì các Long vương Nan-đà và Bạt-nan-đà v.v… thương xót chúng
sanh, từ nước biển lớn, xối xuống mưa ngọt, tất cả rừng già, trăm giống lúa mạ,
cây cối thảo mộc, đều được tươi tốt, chúng sanh nhờ nơi, oai lực Kinh này, được
dài thọ mạng.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời
trược ác, hầu hết chúng sanh, đong lường dối trá, được của vô nghĩa, do tội
nghiệp đó, chết vào địa ngục, từ địa ngục ra, chịu thân súc sanh, như loài
trâu, lừa, voi, ngựa, heo, chó, dê, gà, chim, chóc, muỗi, ruồi, rận, kiến…Nếu
có Bồ-tát Ma ha tát, đem lòng từ bi, đối với cầm thú, ruồi, kiến v.v…chuyên đọc
Kinh này, qua tai của chúng, do oai lực Kinh, tùy loại giải thoát, những súc
sanh đó, bỏ thân kia rồi, được vui sanh thiên. Nếu Bồ-tát nào, không lòng từ
bi, chẳng thể diễn nói, về Kinh điển này, người ấy chẳng phải, đệ tử của Phật,
là bạn của ma.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, về đời năm
trược, hầu hết chúng sanh, lòng dạ khinh mạn, chẳng tin Kinh điển, chê bai Phật
pháp, nếu những nơi nào, có người nói pháp, họ không lòng nghe. Do tội nghiệp
đó, hiện đời đoản mạng, đọa các địa ngục. Nếu những chỗ nào, giảng nói Kinh
này, những chúng sanh nào, có thể đến nghe, hoặc khuyên người khác, chia chỗ
cho ngồi, người ấy chính là, rường cột của Phật, được vui trường thọ, chẳng qua
đường ác. Vị Bồ-tát muốn chuyển đọc Kinh này, thì nên thanh tịnh, thiết lập đàn
tràng, tùy thất lớn nhỏ, đều được tất cả.
Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, tất cả
người nữ, thân mang thai nghén, mà giết sanh mạng, ăn các trứng chim, vì không
lòng từ, nên hiện đời bị, mạng sống ngắn ngủi, đến khi sắp sanh, lại bị sản
nạn, do khó sanh mà có thể mất mạng, hoặc là oan gia, sanh đến báo thù.
Hạng người nữ thọ, nếu phát nguyện rộng, biên
chép Kinh này, liền khiến dễ sanh, không các tai chướng, mẹ con an vui.
Muốn cầu con trai, muốn cầu con gái,
tùy nguyện được sanh.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo đại Bồ-tát Văn Thù
Sư Lợi:
Khi Ta nói Kinh Trường Thọ Diệt Tội, mười
hai nhân duyên, Phật tánh thường trụ, mà các Đức Phật quá khứ chung nói, nếu có
chúng sanh, thọ trì đọc tụng, được nhiều phước lợi, hết tuổi của họ, sẽ đầy một
trăm hai mươi, khi bỏ thân này, chẳng bị khổ vì, phong đao xẻ thân. Do vì Phật
tánh, được thân thường hằng, kim cang bất hoại, lòng trong thanh tịnh, của các
Đức Phật, niệm niệm vững chắc, thường có Bồ-tát, là Quan Thế Âm, và Đại Thế
Chí, nương mây năm sắc, voi trắng sáu ngà, cầm đài hoa sen, đón người niệm
Phật, sanh về cõi nước, của Phật A Súc, tự nhiên vui sướng, chẳng qua tám nạn.
Văn Thù nên biết, chúng sanh ngu si, chẳng
biết chẳng hay, thọ mạng ngắn ngủi, như lửa nháng đá, như bọt trên nước, như
ánh điện chớp. Sao lại trong ấy, chẳng kinh chẳng sợ? Sao lại trong ấy, ham
nhiều tài lợi? Sao lại trong ấy? sanh lòng ghen tỵ, để rồi trôi dạt, trong biển
sanh tử? Chỉ có chư Phật, các vị Bồ-tát, mới đến bờ kia, chúng sanh phàm phu,
quyết sẽ trầm luân. Quỷ vô thường đến, bất cứ lúc nào, dầu có vô lượng, vô biên
vàng bạc, tiền tài châu báu, muốn đem chuộc mạng, không thể nào được. Chúng
sanh cần phải, quán xét thân mình, rồi nghĩ như vầy:
Thân này cũng như, bốn con rắn độc, thường bị vô lượng, vi trùng rúc rỉa.
Thân này hôi thúi, bị trói buộc trong, lao ngục tham dục. Thân này đáng ghét,
dường như chó chết. Thân này chẳng sạch, chín lỗ thường chảy. Thân này như
thành, La-sát trong đó. Thân này chẳng bền, sẽ bị diều quạ, chó đói ăn nuốt.
Hãy bỏ thân nhơ, cầu tâm Bồ-đề.
Nên quán thân này, lúc bỏ mạng sống, mồ hôi
toát ra, hai tay trống rỗng, đau đớn khó nhẫn. Lúc mạng căn dứt, một ngày, hai
ngày cho đến năm ngày, sình chướng bầm tím, máu mủ chảy ra, Cha Mẹ vợ con,
chẳng ưa nhìn thấy. Đến khi xương thân, rã ra trên đất, thì các lóng đốt, rơi
rớt bừa bãi, xương tay, xương đùi, xương sườn, xương sống, xương đầu, xương sọ,
mỗi cái mỗi nơi, da thịt ruột rà, gan, thận, tim, phổi, bị dòi rúc rỉa…Sao lại
trong ấy, chấp càng có ngã? Bấy giờ, tất cả vàng bạc, ngọc ngà, tiền của, kho
đụn, trong lúc sanh tiền, đâu còn quan hệ gì với ta nữa?
Nếu chúng sanh nào, muốn khỏi khổ ấy, thì
chớ nên tiếc, nước thành vợ con, đầu mắt tủy não, biên chép Kinh này, thọ trì
đọc tụng, Mười hai nhân duyên, là tạng bí yếu, của các Đức Phật, lưu thông cúng
dường, thì trong mỗi niệm, sẽ thành tựu tâm Vô thượng Bồ-đề, không một điều gì,
có thể phá hoại, trọn chẳng chết non, vì nạn hoạnh tử.
Khi Đức Thế Tôn, ở giữa đại chúng, nói về
giáo pháp “Mười hai nhân duyên, Phật tánh thường trụ” thì cả đại hội,
các vị Tỳ-kheo, và Tỳ-kheo-ni, nam nữ cư sĩ, tám bộ trời rồng, hạng nhân phi
nhân, vua Ba-Tư-Nặc, cùng các quyến thuộc, vô số đại chúng, đều giác ngộ tâm Vô
thượng Bồ-đề, chứng Vô sanh nhẫn, tất cả đều khen, là chưa từng có, một lòng
đảnh lễ, hoan hỷ thực hành.
-
Hết -
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
Đa Tâm Kinh
Quán Tự Tại Bồ tát, hành thâm Bát nhã Ba la
mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị
sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục
như thị.
Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất
sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc,
vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thứ giới, vô vô minh diệc, vô
vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận, vô khổ, tập, diệt, đạo; vô
trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa y Bát nhã ba
la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên
đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn. Tam thế chư Phật y Bát nhã ba la mật đa cố,
đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã ba la mật đa, thị đại thần
chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt
thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú, tức
thuyết chú viết:
Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết
đế Bồ đề Tát bà ha. (3 lần)
Vãng sanh quyết định chơn ngôn
Nam mô A di đa bà dạ. Đa tha dà đa dạ. Đa
điệt dạ tha.
A di rị đô bà tỳ.
A di rị đa, tất đam bà tỳ.
A di rị đa, tì can la đế.
A di rị đa, tỳ can la đa.
Già di nị, dà dà na.
Chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (3 lần)
A Di Đà Phật thân kim sắc
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di
Cám mục trừng thanh tứ đại hải
Quang trung hóa Phật vô số ức
Hóa Bồ tát chúng diệc vô biên
Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ
Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
Nam mô A Di Đà Phật (108 lần)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát (1 lần)
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát (1 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (1
lần)
SÁM
NGUYỆN
Cúi
đầu làm lễ Thế Tôn,
Nguyện
cho bá tánh tiêu trừ nạn tai.
Lạy
cầu Quan Âm Như Lai,
Tầm
thinh cứu khổ hằng ngày chúng sanh.
Khỏi
đời tật bệnh tử sanh,
Mỗi
ngày nguy hiểm đấu tranh đủ điều.
Sáng
ra từ sớm đến chiều,
Biết
bao tai nạn rất nhiều tử sanh.
Thế
đời liệt liệt oanh oanh,
Miếng
mồi phú quý công danh tạo thành.
Nguyện
Ngài đức cả tầm thanh,
Cầu
xin cứu khổ, ban lành chúng nhân.
Chúng
con lễ bái Quan Âm,
Xót
thương cứu khổ từ tâm biển trần.
Tay
cầm dương liễu ân cần,
Cùng
bình tịnh thủy rưới dân cam-lồ.
Cúi
đầu sanh tử mơ hồ,
Phù
du cõi tạm cơ đồ lửa thiêu.
Hằng
ngày tai nạn rất nhiều,
Cầu
Ngài cứu khổ mai chiều hóa thân.
Độ
đời bá tánh vạn dân,
Khắp
cùng pháp giới trọn phần an vui.
Cha
sanh con thảo dưỡng nuôi,
Mẹ
hiền đức độ khiến xui làm lành.
Nhà
nhà an lạc tịnh thanh,
Bốn
mùa tám tiết hóa sanh thuận hòa.
Nhân
dân lạc nghiệp âu ca,
Hòa
bình thế giới, quốc gia an lành.
Tránh
điều quả báo sát sanh,
Tìm
đường đạo đức cha lành Thích-ca.
Tụng
kinh niệm Phật Di-đà,
Cầu
cho bá tánh toàn gia an lành.
Hiện
tiền phước quả viên thành,
Khắp
cả nam nữ tâm sanh hiền từ.
Mọi
người tật bệnh tiêu trừ,
Noi
theo chánh pháp Bổn Sư tu hành.
Chúng
con lễ bái chí thành,
Nguyện
mau thoát khỏi tử sanh luân hồi.
Cõi
đời khổ não lắm ôi,
Quyết
lòng theo Phật về ngôi sen vàng.
Nam-mô
Tịnh Độ Lạc Bang,
Dắt
dìu đệ tử Tây Phang mau về. O
DƯỢC
SƯ QUÁN ĐẢNH CHƠN NGÔN
Nam mô bạt dà phạt đế, bệ sát xả, lụ rô
tích lưu ly, bát lặt bà, hắt ra xà dã, đát tha yết đa da, a ha hắt đế, tam miệu
tam bột đà da. Đát điệt tha. Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết
đế tóa ha ( 3 lần ) O.
Nguyện Phật hộ trì, âm dương hai cảnh,
Người còn khỏe mạnh, kẻ thác siêu sinh,
Bốn phương hưởng cảnh thái bình,
Tám hướng vui miền Cực-lạc.
Sống không tật bệnh, thác đặng khinh an.
Về Tây phương ngồi tựa sen vàng,
Qua Bảo-địa vui chơi lầu ngọc.
Sớm tiêu trần tục, mau chứng chơn thường.
Khắp cả mười phương, đồng như chư Phật.
Phổ
nguyện: Đồng văn Phật thuyết, đồng diễn Phật âm,
Đồng ngộ Phật tâm, đồng thành Phật đạo.
Nam
Mô A Di Đà Phật. O
TỰ QUY
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể
theo đạo cả, phát lòng vô thượng. O
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu
rõ Kinh Tạng, trí tuệ như biển. O
Tự
quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. O